Wednesday, October 25, 2017

Chứng minh: '' Văn học dân gian góp phần quan trọng bồi dưỡng trau dồi tình cảm tốt đẹp, lối sống tích cực và lành mạnh.

CẢM NGHĨ CÁ NHÂN


Văn học dân gian -món ăn tinh thần của người dân lao động - là tâm tư tình cảm của con người ,đồng thời cũng chính là nguồn 
cảm hứng sâu sắc , là cơ sở hình thành văn học viết .Văn học dân gian bao gồm nhiều thể loại, trong đó ca dao
 là một trong những mãng lớn tạo nên những nét đặc sắc của văn học dân gian ; nó 
là tiếng tơ đàn muôn điệu ,là nỗi chứa giàu tâm tư tình cảm ,cũng chính là những làn điệu quê hương đầm ấm . 
Văn học dân dan là những tác phẩm ngôn từ truyền miệng cũng là sản phẩm của quá trình sáng tác tập thể , 
lại có nhiều nét đặc trưng cơ bản riêng biệt . Gía trị văn học dân gian được coi như là kho tri thức mang
 nhiều giá trị nhân đạo và là chuẩn mực noi theo. Mỗi tác phẩm của văn học dân gian là những cung bậc tâm tư , 
tình cảm ,tiếng nói của con người việt thể hiện nhân cách sống và thấu hiểu tâm hồn của
 người dân lao động giàu tình cảm và chứa đựng nhiều cảm xúc .Nói tóm lại , văn học dân gian là nơi tâm hồn ,tình cảm,
 cốt cách và phẩm chất.
m giá của con người được trào dâng. Nó cũng mang nhiều giá trị to lớn.
Không giống như các thể loại văn học: Thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết… văn học dân gian không xuất hiện 
giọng điệu của chủ thể cá nhân. Nó được ra đời từ sáng tác tập thể, trong nó được biểu thị tâm tư tình cảm
 của một loại người, cộng đồng nào đó trong xã hội.
 Mà mỗi khi đọc lên ta lại thấy được cái giọng điệu, quan điểm của tập thể đã được toát lên như thế nào.
Gập lại cuốn sách Văn học Dân gian cái hay, vẻ đẹp của Lê Xuân Mậu đã giúp tôi hiểu rõ hơn phần nào về kho tàng
 văn học ấy. Một kho tàng tri thức vô giá mang trong mình những lời dạy, lời đúc kết quý báu của bao đời dành cho 
các thế hệ sau. Dù nó được thể hiện dưới dạng văn vần, câu thơ, tục ngữ hay chỉ là bài đồng giao, câu đố. 
Thì những giá trị của nó dành cho con người là vô giá. Vậy mà sự tồn tại và cách đi của nó để có thể ăn sâu được
 vào tâm trí của từng người dân lại bằng con đường
 rất đơn giản: “truyền miệng”.
Một thể loại phải nhớ tới đầu tiên khi nhắc tới nền văn dân gian này là ca dao. Lời của ca dao không là 
lời của nhân vật cụ thể. Nên những giọng điệu tươi vui, hoan hỉ hay thương cảm, oán trách… 
của nó chỉ là những trạng thái cảm xúc, sắc điệu của tình cảm. Và những hình tượng nhân vật trong nó
 bao giờ cũng đem tính phiếm chỉ, không phải một cá nhân nào mà lại là bất kì ai trong hoàn cảnh đó.
 Ví như một lời oán trách:
Nào khi anh bủng anh beo
Tay bưng bát thuốc, tay đèo múi chanh.
Bây giờ anh khỏi anh lành
Anh vui duyên mới anh tình phụ tôi.
Hay là một lời cảnh tỉnh:
Có quán tình phụ cây đa
Ba năm quán đổ, cây đa vẫn còn.
Cũng thật trùng hợp khi có cùng quan điểm với tác giả rằng ca dao đâu cần hoa mỹ mới hay. Vì hầu hết các bài ca dao
 chỉ sử dụng những ngôn ngữ tự nhiên – đời thường, không cầu kỳ hoa mỹ và rất giản dị, mộc mạc nữa. Vì khi được 
nghe những câu ca dao như vậy ta sẽ không phài tìm tòi, suy ý kiểu vòng vo, ám chỉ bóng gió xa xôi mà cảnh tình
 đã được suy diễn trực tiếp.
Thương anh hãy đứng xa xa
Con mắt anh liếc cũng bằng ba đứng gần.
Rất thẳng, thực và trực tiếp. Chẳng có gì là kín đáo, bóng gió nhưng những thấy được những mặt tinh vi của tình cảm 
được khêu gợi nếu ta có chút kinh nghiệm yêu đương và giao tiếp.
Một điều nữa mà ta thấy không thể thiếu được trong ca dao đó là ví von. Và chẳng thế mà khi ca dao hát lên mọi người 
vẫn thường nói là hát ví, hay cũng quen thuộc với cụm từ “ví ví von von”. Nhưng với cuốn sách tôi đã nhận được ví von
 ở ca dao gắn liền với thao tác so sánh trong tư duy hình tượng của người sáng tác, gắn liền với hoạt động liên tưởng:
Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?
Cũng có thể là một dạng nhân hóa:
Con cò chết rũ trên cây
Cò con mở sách xem ngày làm ma.
Cố nhiên, do đặc điểm của ca dao và do yêu cầu được cộng đồng tiếp nhận của văn học dân gian nói chung.
 Những hình ảnh ví von tuy không phải là không có những hình ảnh mỹ lệ, nhưng nó vẫn có tính chất quen thuộc, 
ít xa lạ, ít mới mẻ. Và vì thế mà sức liên tưởng mạnh mẽ ở nhiều bài ca dao vẫn đầy sức hấp dẫn, những hình ảnh đẹp, 
những cảm xúc thẩm mĩ và kết quả nhân văn từ kết quả ví von.
Khi nhắc đến ca dao chắc hằn không ai không thể nhắc đến tục ngữ. Ở tục ngữ ta thấy được sự thể hiện về những 
tư tưởng, tình cảm tốt đẹp trong cuộc sống, trong phẩm chất đạo đức của người Việt ta. Nhưng để có được cái hồn ấy,
 tục ngữ lại có hình hài, da thịt đầy vẻ hấp dẫn. Và cái hay vẻ đẹp của ngôn từ cũng chính là cái duyên của tục ngữ.
 Khi nghe và đọc nhiều câu tục ngữ khác nhau, ta thấy được việc sử dụng những ngôn ngữ tài hoa như vậy là không hiếm. 
Có những từ ngữ sử dụng rất sáng tạo, gợi cảm và gây nhiều bất ngờ.
Cái nết đánh chết cái đẹp.
Hay:
Gió đông là chồng lúa chiêm, gió bấc là duyên lúa mùa.
Cũng rất nhiều từ đồng âm hay đa nghĩa được sử dụng rất tinh tế trong tục ngữ. Như câu “chó đen giữ mực”,
 hay “được voi đòi tiên” đã có sự tồn tại của các từ địa phương đồng âm với từ dùng trong ngôn ngữ toàn dân.
Không những vậy ta còn biết đến tục ngữ không chỉ có một nghĩa. 
Nghĩa đen – nghĩa bóng là sự phân biệt thông thường với các nghĩa có thể có ở một câu.
Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ.
Chuyện nghĩa đen nghĩa bóng ở tục ngữ thường được sử dụng là không có gì mới, nhưng không ít khi ta lại
 phải phân vân
 để phân tích khi như một chuyên gia.
Cái hay ở tục ngữ là vốn quý không chỉ về đạo lý, về kinh nghiệm ứng xử với thiên nhiên và
 con người mà còn là một kho kiến thức dùng ngôn ngữ cho mọi người và nói theo.
Những hình ảnh khi còn bé vẫn cùng chúng bạn chạy quanh, hát những bài đồng giao của tôi lại hiện về khi 
được gặp lại
 những bài hát đó trong cuốn sách. Tôi cũng chẳng ngờ được từ những bài đồng giao đó đã dạy tôi cách nói năng.
 Nó đã giúp tôi phát âm chính xác âm “N” như khi bày chơi “Nu na nu nống, cái cống nằm trong, cái nong nằm ngoài…” Hay tôi đã biết thêm các bài vè về các loài cá, loài chim hay những loài hoa rồi đến cả các tháng trong năm.
Tháng giêng là gió hây hây
Tháng hai gió mát, trăng bay vào đền
Tháng ba gió đưa nước lên
Ôi! Những bài đồng giao với ca từ mộc mạc, đơn giản. Vậy mà lại dạy được tôi những điều hay đến thế, 
vừa học vừa chơi một sự kết hợp đầy tinh tế cho cái tuổi ăn tuổi chơi trong những ngày thơ ấu.
Không chỉ dừng lại ở những bài đồng giao mà chính tôi có thể đọc vanh vách lúc còn nhỏ, 
khi mà chưa biết được đến các mặt chứ i, t. Tuổi thơ tôi còn được lớn lên cùng những câu đó dân gian đầy
 hứng thú bên những ổ rơm khi cả gia đình tôi quây quần.
Sừng sững mà đứng góc nhà
Ai mà động đến là òa khóc ngay (Cối xay thóc)
Hay
Hai gươm tám giáo, mặc áo da bò, thập thò cửa lỗ.
(Con cua)
Đã làm tôi phải nhảy lên vì những câu trả lời nhận được mà trong khi vò đầu bứt tóc cũng chẳng ra. 
Những câu đố vui, không khó nhưng lại cần tài quan sát, phát hiện để sao tránh khỏi được những cú “lừa” tinh tế.
 Những câu đố tương tự của mọi người dành cho tôi đã giúp tôi lớn lên nhiều 
và đó cũng là vũ khí lợi hại của tôi dành cho những người bạn nhí của mình,
 chí ít là cái thời ngây ngô khi được hồ hởi mang bút, phấn đến lớp học vỡ lòng tại trường làng.
Văn học Dân gian là một kho tàng tri thức vô giá. Thật rộng lớn cho tôi để có thể hiểu hết về nó.
 Nhưng với tôi khi gập lại cuốn sách thì những câu đố tinh quái, bài đồng giao với đa dạng chủ đề hay
 những câu ca dao, câu vần vè mượt mà đã ăn sâu trong tôi từ thủa ấu thơ lại được khuấy động và sục sôi hơn nữa. 
Và những bài học từ những câu ca dao, tục ngữ được đúc kết từ kinh nghiệm quý báu của cha ông sẽ mãi là
 kim chỉ nam cho tôi trong cuộc sống, một cuộc sống tốt đẹp và hạnh phúc.

Saturday, October 21, 2017

TÓM TẮT VĂN BẢN TỰ SỰ

T 32:

TÓM TẮT VĂN BẢN TỰ SỰ
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
Tóm tắt văn bản là một việc làm phổ biến. Để có được một văn bản tóm tắt tốt, trước hết, cần xác định mục đích tóm tắt rõ ràng (để ghi nhớ, để giới thiệu với người khác hoặc để làm dẫn chứng trong bài văn nghị luận văn học...), và  nắm vững cách thức tóm tắt.
1. Mục đích, yêu cầu tóm tắc văn bản tự sự
a) Mục đích : Trong cuộc sống, việc tóm tắt văn bản tự sự phục vụ nhiều mục đích khác nhau. Thường chúng ta tóm tắt để dễ dàng ghi nhớ, để hiểu và đánh giá nội dung văn bản. Cũng có khi tóm tắt để ghi chép làm tài tài liệu, làm dẫn chứng trong bài văn hoặc để kể lại cho người khác nghe, để minh hoạ cho một ý kiến nào đó của mình.
b) Yêu cầu : Bản tóm tắt phải ngắn gọn nhưng vẫn đảm bảo được nội dung cơ bản hoặc những đặc điểm, những mốc quan trọng trong cuộc đời của nhân vật chính. Bản tóm tắt cũng phải được trình bày theo một bố cục rõ ràng, chính xác theo những yêu cầu chung của văn tự sự.
2. Cách tóm tắc tác phẩm tự sự theo nhân vật chính
- Đọc kĩ văn bản gốc, chọn các sự việc cơ bản xảy ra với nhân vật chính và diễn biến của các sự việc đó.
- Tóm tắt rõ các hành động, lời nói, tâm trạng của nhân vật theo diễn biến của cốt truyện (một vài chỗ có thể kết hợp dẫn nguyên văn một số từ ngữ, câu văn trong văn bản gốc).
II. RÈN KĨ NĂNG
1. Về Truyện An Dương Vương và Mị Châu-Trọng Thuỷ
a) Trong truyện này, có thể xác định An Dương Vương và Mị Châu là hai nhân vật chính (tuy xét về trò quan trọng thì An Dương Vương nổi bật hơn). Hai nhân vật này xuất hiện ở hầu hết các sự việc chính của câu chuyện. Hơn thế nữa, họ còn là những “mắt xích” quan trọng quyết định chiều hướng phát triển của cốt truyện.
b) Tóm tắt Truyện An Dương Vương và Mị Châu-Trọng Thuỷ theo nhân vật An Dương Vương :
Vua An Dương Vương nước Âu lạc họ tên là Thục Phán. Vua cho xây thành ở đất Việt Thường nhưng hễ đắp tới đâu lại lở tới đấy. Một hôm có cụ già từ phương đông tới nói: Sẽ có sứ Thanh Giang đến giúp vua xây thành.
Hôm sau vua mừng rỡ cho người ra đón mới biết sứ Thanh Giang là một con rùa vàng.
Thành xây nửa tháng thì xong, vững chãi và kiên cố. Trước khi về biển, rùa vàng còn tháo vuốt đưa cho nhà vua là lẫy nỏ thần chống giặc. Có thành cao, hào sâu lại có nỏ thần, vua Thục rất nhiều lần đã đánh cho quân của Triệu Đà đại bại.
Đà không dám đối chiến, bèn xin hoà và cho con trai là Trọng Thuỷ sang cầu hôn. Vua đồng ý gả con gái cho Mị Châu, lại cho cả Trọng Thuỷ ở lại Loa Thành làm rể. Có được cơ hội tốt, Trọng Thuỷ bên dụ dỗ Mị Châu cho xem nỏ thần rồi đánh tráo ngay lẫy nỏ.
Quân Triệu Đà phá được nỏ thần bèn ồ ạt tất công. An Dương Vương trong khi ấy cậy có nỏ Liên Châu vẫn điềm nhiên ngồi đánh cờ, không bố phòng gì cả. Loa Thành bị vỡ, Vua Thục bèn mang theo con gái chạy xuống phía Nam. Thế nhưng cùng lúc ấy Trọng Thuỷ lại theo dấu lông ngỗng mà Mị Châu rắc ở đường đuổi theo. Cùng đường, lại nghe sứ Thanh Giang nhắc nhở “Giặc ở ngay sau nhà vua đó”, An Dương Vương bèn tuốt kiếm chém Mị Châu rồi cầm rừng tê bảy tấc rẽ nước đi xuống biển.
c) Tóm tắc truyện theo nhân vật Mị Châu :
Mị Châu là con gái của Vua nước Âu Lạc, An Dương Vương Thục Phán. Nhân việc Triệu Đà thua trận xin cầu hoà và muốn được cho con trai sang ở rể, nàng được vua cha thuận ý gả cho Trọng Thuỷ.
Mị Châu rất mực yêu chồng lại ngây thơ khờ dại nên đã vô ý đem bí quyết nỏ thần ra nói với người chồng gián điệp. Có được nỏ thần, Trọng Thuỷ muốn xin về, Mị Châu lại nói : Sau này, nếu có gặp cảnh biệt li thì cứ theo dấu chiếc áo lông ngỗng của thiếp mà tìm.
Thuỷ về nhà, rồi cùng cha đem đội quân sang đánh. Loa Thành đại bại, Mị Châu theo cha chạy xuống phương Nam nhưng vừa đi nàng lại vừa sắc lông ngỗng làm dấu cho Trọng Thuỷ. Chạy ra bờ biển vua cha nổi giận tuốt gươm ra chém.Trước khi chết, Mị Châu còn khấn: Nếu có lòng phải nghịch thì khi chết đi nguyện biến thành cát bụi, bằng không thì xin được biến thành châu ngọc để rửa  sạch mối nhục thù. Mị Châu chết, máu nàng chảy xuống biển, trai sò ăn phải đều biến thành hạt châu. Xác nàng được Trọng Thuỷ đêm về mai táng ở Loa Thành, Trọng Thuỷ thương nhớ Mị Châu, sau đó cũng lao đầu xuống giếng mà chết. Người đời sau mò được ngọc ở biển Đông đem về giếng ấy mà rửa thì ngọc càng thêm sáng.
d) Có thể rút ra cách thức tóm tắt tác phẩm theo tự sự theo nhân vật  chính như sau:
Để tóm tắc tác phẩm tự sự theo nhân vật chính cần:
- Xác định mục đích tóm tắt (tóm tắt phục vụ mục đích gì? Hơn nữa có tác phẩm có thể có nhiều nhân vật chính nên có thể có rất nhiều cách tóm tắt khác nhau).
- Đọc kĩ văn bản để xác định nhân vật chính (những nhân vật xuất hiện nhiều và có vai trò quyết hướng tới sự phát triển hoặc đổi thay chiều hướng truyện). Đặt nhân vật này trong mối quan hệ vợi các nhân vật khác và diễn biến các sự việc trong cốt truyện để dễ dàng tóm tắt hay lược bỏ.
- Viết văn bản tóm tắc bằng lời văn của mình để giới thiệu nhân vật, nêu rõ các hành động, lời nói, tâm trạng của nhân vật theo diễn biến của cốt truyện (để khắc hoạ nhân vật, có thể kết hợp trích dẫn nguyên văn một số từ ngữ, câu văn trong tác phẩm).
- Kiểm tra lại và sửa chữa văn bản tóm tắt cho phù hợp với mục đích và yêu cầu của việc tóm tắt.
 2. a) Căn cứ vào nội dung văn bản, có thể thấy Từ điển văn học đã chọn cốt truyện làm định hướng để tóm tắt truyện Tấm Cám. Trong khi đó, nhà văn Nguyễn Đình Thi đã dựa vào tính cách nhân vật Trương Sinh để tóm tắt chuyện người con gái Nam Xương.
b) Nguyễn Đình Thi tóm tắt truyện để làm dẫn chứng minh họa cho bài văn nghị luận, vì thế mà định hướng tóm tắt có khác với Từ điển văn học (tóm tắt truyện Tấm Cám nhằm giới thiệu khái quát nội dung tác phẩm).
Từ điển văn học đã tóm tắt sự việc "Bụt hiện lên an ủi, giúp đỡ Tấm" trong một câu và sự việc "Tấm biến hóa nhiều lần" được kể lại bằng ba câu. Chuyện người con gái Nam Xương vốn gồm mấy trăm câu, nhưng Nguyễn Đình Thi đã gói gọn lại chỉ trong sáu câu văn ngắn.
Qua hai cách làm này, có thể rút ra kinh nghiệm : Dù định hướng tóm tắt theo cốt truyện hay theo nhân vật thì điều quan trọng vẫn là phải biết cách lược đi những sự việc, những chi tiết phụ ; chọn lấy những sự việc, những chi tiết chính. Hơn nữa, trong khi viết, kĩ thuật "nén câu dồn ý" sẽ làm cho bài tóm tắt thêm cô đọng hơn.
3. Tóm tắc Truyện An  Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thuỷ theo  nhân vật Trọng Thuỷ :
Triệu Đà nhiều lần cất quân đánh sang Âu Lạc những điều thất bại bèn sai con trai sang hỏi Mị Châu để cầu hoà. Sau khi An Dương Vương đồng ý gả Mị Châu, Trọng Thuỷ xin ở lại Loa Thanh để chờ có cơ hội dò xét “bí quyết’ đánh giắc của An Dương Vương. Một hôm trong khi nói chuyện, Trọng Thuỷ dỗ Mị Châu cho xem trộm nỏ thần. Xem xong, Thuỷ ngầm làm một cái lẫy nỏ khác thay  vuốt vàng rồi xin phép Thục Phán được về phương bắc thăm cha. Trước khi ra đi, Trọng Thuỷ còn cùng với Mị Châu hứa hẹn: nếu sau này lỡ chẳng may li tán thì cứ theo dấu lông ngông rứt ra từ chiếc áo của Mị Châu mà tìm.
Trọng Thuỷ về phương Bắc chế nỏ rồi cùng cha kéo quân xuống phương Nam. Thế quân đang mạnh lại gặp lúc An Dương Vương có ý chủ quan nên chẳng mấy chốc quân của Trọng Thủy đã chiếm được Loa Thành. Không thấy vợ ở trong thành, Thuỷ tức tốc phi ngựa theo dấu lông ngỗng mà đuổi theo. Thế nhưng đến sát bờ biển, Thuỷ đã thấy Mị Châu đã chết tự bao giờ. Trọng Thuỷ ôm xác Mị Châu đem về Loa Thành an táng. Một hôm trong khi đi tắm, Trọng Thuỷ nhìn thấy bóng dáng Mị Châu dưới nước bèn cứ thế lao đầu xuống giếng mà chết. Người đời sau đồn rằng đem nước ở giếng này mà rửa ngọc minh châu thi thấy ngọc cứ ngày một sáng thêm lên.
4.  Tóm tắc truyện Tấm Cám theo nhân vật Tấm (hoặc Cám)
a) Tóm tắt truyện theo nhân vật Tấm :
 Tấm mồ côi cha từ nhỏ. Cô phải sống cùng với mụ dì ghẻ và cô em gian ác. Trong mọi việc, Tấm luôn là người phải chịu thiệt thòi. Đi bắt tôm bắt tép, Tấm bị Cám lừa trút hết giỏ tép đầy. Tấm nuôi được con cá Bống, mẹ con Cám lại lừa giết thịt ăn. Ngày nhà vua mở hội, mụ dì nghẻ lại lấy gạo và thóc trộn lẫn với nhau bắt Tấm nhặt xong mới được đi xem.  Trong tất cả những lần như thế Tấm đều được Bụt hiện lên an ủi và giúp đỡ. Nhờ có Bụt, ngày hội Tấm có quần áo đẹp, khăn đẹp và giầy đẹp. Đi xem hội, Tấm sơ ý đánh rơi mất chiếc giầy nhưng cũng may nhờ chiếc giầy ấy, Tấm trở thành hoàng hậu. Ghen ghét, mẹ con cám lập mưu giết Tấm rồi đưa Cám vào cung để thế chân. Tấm chết, biến hoá nhiều lần thành: chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửa. Mỗi lần như thế lại là một lần Tấm bị mẹ con Cám lập mưu hãm hại. Cuối cùng Tấm biến thành quả thị, âm thầm giúp việc nấu cơm, quét dọn cho bà hàng nước. Nhưng rồi bà cụ cũng phát hiện ra. Bà xé tan vỏ thị và thế là từ đấy Tấm sống cùng bà. Một hôm nọ vua đến quán này uống nước, ăn miếng trầu cánh phượng, vua thấy quen và thế là vua nhận ra người vợ yêu quý của mình. Tấm thẳng tay trừng trị mẹ con nhà Cám rồi trở lại cuộc sống hạnh phúc bên vua.
b) Tóm tắt truyện theo nhân vật Cám :
Cám xấu tính nhưng lại phải sống bên người chị cùng cha khác mẹ hiền lành, xinh đẹp nên lúc nào cũng tỏ ra ganh ghét. Được mẹ đứng sau hậu thuẫn, Cám luôn tìm cách để đày đoạ chị. Cùng đi hớt tép nhưng Cám lười nhác không bắt được con nào.  Cám lừa chị hụp xuống ao để trút giỏ tép mang về. Thấy Tấm nuôi được con cá Bống, Cám lại lừa bắt và giết thịt. Ngày hội, Cám sắm sửa quần áo đẹp đi chơi. Thấy vua mời các thiếu nữ thử giầy kén vợ, Cám cũng len vào nhưng không được.
Ghen tức vì Tấm được làm hoàng hậu, nhân ngày dỗ cha, Cám và mẹ lừa Tấm trèo cau rồi giết Tấm. Cám vào cung thay chị. Một hôm đang giặt áo, Cám  lại nghe tiếng chim vàng anh hót lời của Tấm. Cám tức giận bắt chim làm thịt rồi nói dối vua. Tưởng đã an tâm nhưng một thời gian sau ở vườn ngự lại mọc lên hai cây xoan đào rất đẹp. Nhà vua lấy làm yêu thích lắm. Biết chuyện Cám lại sai cho lính chặt cây đóng thành khung cửi. Thế nhưng cứ mỗi lần ngồi vào khung cửi, cám lại nghe thấy tiếng chửi rửa mình. Không chịu được, Cám đốt quách khung cửi rồi đổ tro ra mãi bên đường.

Lạ thay một hôm không biết từ đâu Tấm trở về. Cám thấy chị xinh đẹp hơn xưa thì tỏ ra ham muốn. Cuối cùng Cám chết một cách thích đáng vì sự tham lam và ngu ngốc của mình.

T30 :LẬP DÀN Ý BÀI VĂN TỰ SỰ

T30 :LẬP DÀN Ý BÀI VĂN TỰ SỰ


I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Lập dàn ý bài văn tự sự là dựng nên bộ khung cho câu chuyện mà mình sẽ viết hay sẽ kể.

2. Muốn lập đ­ược một dàn ý tốt cần dự kiến đề tài, xác định các nhân vật, sự kiện, chọn và sắp xếp các sự việc, chi tiết tiêu biểu thành  cốt truyện.

II. RÈN KĨ NĂNG

1. Tìm hiểu đoạn trích bài Về truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyên Ngọc để nắm được vấn đề hình thành ý t­ưởng, dự kiến cốt truyện

a) Trong văn bản, nhà văn Nguyên Ngọc kể lại câu chuyện về quá trình suy nghĩ, chuẩn bị để sáng tác truyện ngắn Rừng xà nu.

b) Qua lời kể của tác giả, có thể rút ra bài học: Để chuẩn bị viết một văn bản tự sự, cần hình thành ý tư­ởng, dự kiến cốt truyện, suy nghĩ, tư­ởng tư­ợng về các nhân vật cùng các sự việc, chi tiết tiêu biểu đặc sắc làm nên cốt truyện.

Những dự kiến này giúp cho quá trình lập dàn ý đ­ược rõ ràng hơn và dàn ý cũng cụ thể, chi tiết hơn.

2. Dựa vào suy ngẫm của nhà văn Nguyễn Tuân về kết thúc truyện Tắt đèn của Ngô Tất Tố, lập dàn ý cho bài văn tự sự theo gợi ý sau :

a) Trường hợp 1 :

- Mở bài : Giới thiệu câu chuyện xảy ra từ kết thúc truyện Tắt đèn.

- Thân bài : Kể lại câu chuyện theo 2 sự việc chính.

+ Sau cái đêm ấy, chị Dậu gặp một cán bộ cách mạng và được giác ngộ (Chị Dậu đã gặp người cán bộ cách mạng trong tình huống nào ? Người cán bộ đã làm gì để giác ngộ chị Dậu ? Chị Dậu đã giác ngộ cách mạng như thế nào ?…).

+ Trong cuộc khởi nghĩa tháng Tám – 1945, chị Dậu dẫn đầu đoàn nông dân lên cướp chính quyền huyện, phá kho thóc Nhật chia cho dân nghèo (Từ việc giác ngộ cách mạng, chị Dậu đã tham gia hoạt động khởi nghĩa ra sao ? Chị Dậu đã cùng các nông dân khác cướp chính quyền huyện, phá kho thóc Nhật như thế nào ?…).

- Kết bài : Câu chuyện kết thúc như thế nào ? Em suy nghĩ gì về sự giác ngộ và hành động của chị Dậu ?

b) Trường hợp 2 :

- Mở bài : Giới thiệu câu chuyện xảy ra từ kết thúc truyện Tắt đèn.

- Thân bài : Kể lại câu chuyện với những sự việc cụ thể.

+ Cuộc kháng chiến chống thực dân pháp nổ ra, chị Dậu đã nhận thức về cuộc kháng chiến này như thế nào ?

+ Tuy sống trong vùng địch hậu, chịu sự kiểm soát của địch nhưng chị Dậu vẫn bí mật nuôi giấu cán bộ, nhiều lần đậy nắp hầm bem cho cán bộ,… (Sống trong vùng địch hậu, chị Dậu gặp những khó khăn gì ? Tại sao chị Dậu vẫn bí mật nuôi giấu cán bộ ? Những sự việc nào chứng tỏ lòng căm thù giặc và tinh thần cách mạng của chị Dậu ?…),

- Kết bài : Câu chuyện kết thúc như thế nào ? Nêu suy nghĩ của em về hành động của chị Dậu.

3. Cách lập dàn ý một bài văn tự sự

Bư­ớc 1: Trư­ớc khi lập dàn ý, cần suy nghĩ để chọn đề tài, chọn một chủ đề hoặc vấn đề sau đó phác thảo qua cốt truyện.

B­ước 2: Từ đề tài, chủ đề của câu chuyện, ngư­ời viết phải t­ưởng tượng, sáng tạo ra những nét chính hình thành nên cốt truyện. Cốt truyện có thể dựa vào cuộc đời và số phận của nhân vật chính hay dựa theo diễn biến của sự việc chính.

Bư­ớc 3: Dựa vào mô hình dàn ý (3 phần), tìm các yếu tố cấu thành tác phẩm: Lí do, không gian xảy ra câu chuyện, các tình tiết của truyện, các nhân vật và quan hệ của chúng, các cảnh thiên nhiên, các đối thoại chính, tâm trạng của nhân vật...

B­ước 4: Hệ thống hóa các khâu trên bằng một dàn ý chi tiết.

4. Dựa vào câu nói của Lê-nin (Tôi không sợ khó, không sợ khổ, tôi chỉ sợ những phút yếu mềm của lòng tôi. Đối với tôi chiến thắng bản thân là chiến thắng vẻ vang nhất) để kể về câu chuyện với đề tài : Một học sinh có bản chất tốt, như­ng do một hoàn cảnh nào đó xô đẩy dẫn đến phạm sai lầm nh­ưng đã kịp thời tỉnh ngộ.

- Có thể xây dựng cốt truyện như­ sau:

+ An (học sinh) vốn là một người hiền lành trung thực.

+ Sau khi cha mẹ bỏ nhau, An chán nản, bị kẻ xấu lôi kéo nên đã phạm sai lầm đáng tiếc (chơi bời lêu lổng, lấy cắp xe đạp, học hành bê trễ...).

+ An ân hận, dằn vặt như­ng mặc cảm không dám đến lớp.

+ An đ­ược thầy giáo chủ nhiệm giúp đỡ và bảo lãnh cho trở lại trường.

+ An đã cố gắng vươn lên và trở lại con ng­ười xư­a.

- Học sinh dựa vào cốt truyện này để xây dựng dàn ý: yêu cầu tưởng t­ượng thêm các chi tiết về hoàn cảnh: lời nói, hành động tâm trạng của An; các nhân vật phụ (bạn bè của An, những kẻ xấu và ngư­ời thầy giáo...).

5. Lập dàn ý cho câu chuyện kể lại một kỉ niệm sâu sắc về tình bạn, tình thày trò...

Tham khảo dàn ý sau đây (câu chuyện về tình bạn).

(A) Mở bài :

- Hỏi và Tùng gần gũi thân thiết với nhau từ nhỏ. Họ học cùng lớp với nhau.

- Câu chuyện diễn ra khi ở lớp xảy ra liên tiếp những vụ mất tiền.

(B) Thân bài :

- Kể vắn tắt vài vụ mất tiền mà không tìm thấy nguyên do (trong đó Hải là ng­ười mất nhiều nhất).

- "Một mất m­ời ngờ", không khí của lớp trở lên căng thẳng.

- Cuộc truy tìm thủ phạm bế tắc, mâu thuẫn trong lớp xảy ra.

- Hải nghi ngờ tất cả mọi người trong đó có Tùng. Họ đã to tiếng và không còn chơi với nhau.

- Nhờ sự can thiệp của các thầy cô giáo, lớp đã tìm ra thủ phạm (là một học sinh lớp khác).

(C) Kết thúc :

- Không khí lớp trở lại bình th­ường.


- Hải xin lỗi Tùng trước lớp. Họ lại thân thiết như x­a.